Alexander Volkanovski: Từ cầu thủ rugby tới nhà vô địch hàng đầu UFC
Chủ nhật, 15/10/2023 10:00 (GMT+7)
Alexander Volkanovski hiện đang là nhà vô địch “vững chân” nhất tại UFC. Trong khi toàn bộ các hạng cân khác đều đổi ngôi vương trong thời gian gần đây, Volkanovski vẫn là chủ nhân của đai vô địch hạng Featherweight.
Hiếm có giai đoạn nào mà những pha lật kèo, những chuyến đổi ngôi lại diễn ra cấp tập như hiện trạng của UFC những tháng vừa qua. Nếu như trước kia, một nhà vô địch có thể trụ vững và áp đảo toàn bộ võ sĩ còn lại của hạng cân trong vòng dăm ba năm, thì trong 13 tháng trở lại, gần như toàn bộ các hạng cân đều đổi ngôi vương.
Hạng cân duy nhất còn duy trì kết cấu vững vàng là hạng Featherweight, nơi mà Alexander Volkanovski thống trị. Sở hữu 16 trận đấu ở hạng 145 lbs, Volkanovski giữ vững thành tích toàn thắng, bao gồm cả 5 trận bảo vệ đai thành công.
Vậy bí quyết giữ ngôi vô địch của “The Great” là gì? Hãy cùng theo dõi của hành trình mà Alexander Volkanovski đã thực hiện, từ một cầu thủ rugby nặng gần 100kg tới một nhà vô địch UFC.
Trước khi gia nhập UFC
Cha của Alexander Volkanovski là người gốc Macedonia, còn mẹ là người Hy Lạp - điều này giải thích tại sao Volkanovski chọn cho mình biệt danh “The Great”, phỏng theo Đại đế Alexander, “Alexander The Great”, vị Hoàng đế Macedonia với những cuộc chinh phạt ngang dọc hai phần ba lục địa Âu - Á.
Với năng khiếu vận động bẩm sinh, Alexander Volkanovski hướng sự chú ý của anh đến với cả 2 môn thể thao: vật wrestling và bóng bầu dục rugby. Volkanovski từng vô địch giải trẻ quốc gia môn vật khi anh còn học trung học, tuy nhiên về sau, anh bỏ ngang wrestling để tập trung chơi rugby. Volkanovski chơi ở vị trí front-rower của đội Warilla Gorillas, góp công lớn giúp đội bóng này giành ngôi vô địch Country Rugby League vào năm 2011.
Trong quá trình chơi rugby, Alexander Volkanovski khá “nặng đô”: anh chỉ cao 1m68, nhưng lại chè chén quá độ đến mức có khi cân nặng của Volkanovski lên đến tận 97kg. Bởi thế, “The Great” tìm đến với MMA, như một cách giảm béo giữa các mùa giải.
“Hồi đó tôi bự con hơn bây giờ nhiều lắm,” Volkanovski từng nói trên podcast của Joe Rogan. “Tôi muốn giữ dáng trong giai đoạn chuẩn bị trước mùa giải rugby, vậy nên tôi bắt đầu đi tập MMA. Tôi mê MMA từ lúc đó.”
Trong lúc vẫn chơi rugby, Alexander Volkanovski có một vài trận MMA trên các sàn đấu nghiệp dư, nhưng lúc đó anh không thật sự đặt cược tương lai của mình vào sàn võ. Bóng bầu dục, cùng với công việc của một thợ đổ bê tông, mới là ưu tiên của “The Great”.
Tuy nhiên, đến cuối thì Volkanovski vẫn đi đến quyết định rời sân rugby, ngay sau khi anh giúp đội nhà vô địch.
“Đội của tôi đã đoạt ngôi vô địch vào năm cuối cùng tôi còn chơi bóng bầu dục,” Volkanovski kể lại. “Nhờ chiến thắng đó, nó trở thành một năm tốt đẹp để đặt dấu chấm hết. Dù sao, đó là giai đoạn có rất nhiều chuyện xảy ra, rất căng thẳng. Tôi cũng đã có một vài trận MMA nghiệp dư, trong khi vẫn đang chơi rugby và vẫn đang làm ở công trường.”
Alexander Volkanovski chính thức trở thành võ sĩ MMA chuyên nghiệp vào năm 2012, lúc này anh đã giảm cân xuống đến 77kg và thi đấu ở hạng lightweight. Volkanovski giành đai ở Cage Conquest, Roshambo, Pacific Xtreme Combat; nhưng phải nhận trận thua đầu tiên trong sự nghiệp tại Australian Fighting Championship.
Tổng kết lại, thành tích của “The Great” trước khi bước vào UFC là 13 thắng - 1 thua chỉ trong 4 năm, với chuỗi 10 trận toàn thắng liên tục.
Lý do nào khiến Alexander Volkanovski thành công tại UFC?
Sau 2 trận thắng ấn tượng đầu tiên ở đấu trường bát giác, Volkanovski thượng đài cùng võ sĩ New Zealand Shane Young, người đang tập cùng Israel Adesanya và Dan Hooker tại phòng tập City Kickboxing. Trận đấu đó khiến anh có cơ hội gặp gỡ HLV Eugene Bareman.
Eugene Bareman cho biết ông rất ấn tượng với những gì mà Alexander Volkanovski đã thể hiện, nhưng cũng để ý tới không ít thiếu sót. Sau nhiều cuộc trao đổi, Volkanovski đi đến một quyết định lớn - anh chuyển từ Australia sang New Zealand để tập cùng team City Kickboxing.
“Ở City Kickboxing, tôi có được rất nhiều lợi ích từ việc luyện tập cùng một lò với những võ sĩ chuyên nghiệp đỉnh cao,” Volkanovski nói. “Nhất là khi so sánh với môi trường trước kia - khi tôi còn ở Úc, tôi không phải ngày nào cũng có cơ hội tập cùng với những bạn tập chất lượng.”
Chuyển sang gym mới, Alexander Volkanovski có sự tiến bộ rõ rệt, minh chứng là 2 chiến thắng liên tiếp trước những huyền thoại của hạng cân, Chad Mendes và Jose Aldo. 2 chiến thắng này cũng giúp Volkanovski có cơ hội khiêu chiến ngôi vô địch, lúc đó được sở hữu bởi Max Holloway.
Max Holloway không hề là một đối thủ dễ chơi. Trước khi bị Volkanovski tiếm ngôi, Holloway là một nhà vô địch trẻ đang có phong độ tuyệt vời, với chuỗi 14 trận thắng liên tiếp, bao gồm 3 trận bảo vệ đai.
Thế nhưng, bất chấp vị thế cửa dưới cùng với nhược điểm thể hình, Volkanovski đã có một trận đấu ấn tượng, buộc Max Holloway nhận thua bằng tính điểm sau 5 hiệp đấu.
“Tôi không cần tự huyễn hoặc, tự cổ vũ rằng trong tương lai tôi sẽ trở nên vĩ đại hay gì. Điều khiến tôi tiếp tục kiên trì mỗi ngày là niềm đam mê của tôi, là mindset của tôi về môn thể thao này,” “The Great” chia sẻ, nhấn mạnh rằng bí quyết của anh thật ra không to tát gì.
“Cái tôi có là sự kỷ luật, sự kiên trì mỗi ngày để tập luyện, đều đặn và liên tục. Với kỷ luật vững chắc, tôi sẽ thức dậy, bước chân vào sàn tập hàng ngày như một cỗ máy, mà không cần “lên dây cót” tinh thần cho chính bản thân mình mỗi chút một.”
Sự kiên trì phi thường của Alexander Volkanovski, tất nhiên, cũng đem lại một kết quả phi thường.
Kể từ thời điểm giành ngôi vô địch tại UFC 245, Volkanovski đã có 5 trận bảo vệ đai, 2 lần trong số đó là tái đấu với Holloway, một lần trước Brian Ortega, một lần trước “Korean Zombie” Chan Sung Jung, một lần trước Yair Rodriguez hồi tháng 7 vừa qua. Có thể nói, hạng 145 lbs của Volkanovski gần như đã bị quét sạch, chỉ còn lại một kẻ khiêu chiến đáng gờm là tay đấm mới nổi Ilia Topuria.
Ngoài ra, “The Great” còn kịp lên hạng 155 lbs đấu với Islam Makhachev. Dù Volkanovski đã để thua bằng tính điểm, anh vẫn kỳ vọng sẽ có cơ hội tái đấu Makhachev trong tương lai.